1. Sử dụng và bảo vệ
tài nguyên sinh vật
a) Tài nguyên rừng
(*) Suy giảm tài nguyên rừng và hiện
trạng rừng:
- Độ che phủ rừng ở nước ta năm 1943
là 43%. Năm 1983, giảm xuống còn 22%. Đến 2005, tăng lên đạt 38%.
- Mặc dù tổng diện tích rừng đang
được phục hồi, nhưng tài nguyên rừng vẫn bị suy thoái vì chất lượng rừng chưa
thể phục hồi.
(*) Biện pháp bảo vệ tài nguyên
rừng:
- Theo quy hoạch, phải nâng độ che
phủ rừng của cả nước lên 45-50%, vùng núi dốc phải đạt 70-80%.
- Những quy định về nguyên tắc quản
lí, sử dụng và phát triển đối với ba loại rừng:
+ Đối với rừng phòng hộ: có kế
hoạch, biện pháp bảo vệ nuôi dưỡng rừng hiện có, gây trồng rừng trên đất trống,
đồi núi trọc.
+ Đối với rừng đặc dụng: bảo vệ cảnh
quan, đa dạng về sinh vật của các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên.
+ Đối với rừng sản xuất: đảm bảo duy
trì phát triển diện tích và chất lượng rừng, duy trì và phát triển hoàn cảnh
rừng, độ phì và chất lượng đất rừng.
- Triển khai Luật bảo vệ và phát
triển rừng.
- Giao quyền sử dụng đất và bảo vệ
rừng cho người dân.
- Nhiệm vụ trước mắt là thực hiện
chiến lược trồng 5 triệu ha rừng, nâng độ che phủ rừng lên 43%
b) Đa dạng sinh học
- Suy giảm đa dạng sinh học:
+ Giới sinh vật tự nhiên ở nước ta
có tính đa dạng cao thể hiện ở số lượng thành phần loài, các kiểu hệ sinh thái
và nguồn gen quý hiếm nhưng đang bị suy giảm.
+ Tác động của con người làm thu hẹp
diện tích rừng tự nhiên, đồng thời còn làm nghèo tính đa dạng của các kiểu hệ
sinh thái, thành phần loài và nguồn gen.
+ Nguồn tài nguyên sinh vật dưới
nước, đặc biệt nguồn hải sản của nước ta cũng bị giảm sút rõ rệt.
- Các biện pháp bảo vệ đa dạng sinh
học:
+ Xây dựng và mở rộng hệ thống vườn
quốc gia và các khu bảo tồn thiên nhiên.
+ Ban hành “Sách đỏ Việt Nam”.
+ Quy định việc khai thác (cấm khai
thác gỗ quý, khai thác gỗ trong rừng cấm, rừng non, gây cháy rừng; cấm săn bắn
động vật trái phép; cấm dùng chất nổ đánh bắt cá và các dụng cụ đánh bắt cá
con, cá bột; cấm gây độc hại cho môi trường nước).
2. Sử dụng và bảo vệ
tài nguyên đất
a) Hiện trạng sử dụng tài nguyên đất
- Năm 2005, nước ta có 12,7 triệu ha
đất có rừng, 9,4 triệu ha đất sử dụng trong nông nghiệp (chiếm 28% tổng diện
tích đất tự nhiên, trung bình hơn 0,1 ha/ người). Khả năng mở rộng đất nông
nghiệp ở đồng bằng không nhiều.
- Do chủ trương toàn dân đẩy mạnh
bảo vệ rừng và trồng rừng, diện tích đất trống, đồi trọc giảm mạnh.
- Diện tích đất bị suy thoái vẫn còn
rất lớn (hiện nay có khoảng 9,3 triệu ha đất bị đe dọa hoang mạc hóa).
b) Các biện pháp bảo vệ tài nguyên
đất
- Đối với vùng đồi núi:
+ Để hạn chế xói mòn trên đất dốc
phải áp dụng tổng thể các biện pháp thủy lợi, canh tác làm ruộng bậc thang, đào
hố vảy cá, trồng cây theo băng.
+ Cải tạo đất hoang đồi trọc bằng
các biện pháp nông-lâm kết hợp.
+ Bảo vệ rừng và đất rừng, tổ chức
định canh, định cư cho dân cư miền núi.
- Đối với đồng bằng:
+ Cần có biện pháp quản lí chặt chẽ
và có kế hoạch mở rộng diện tích đất nông nghiệp. Đồng thời với thâm canh, nâng
cao hiệu quả sử dụng đất, cần canh tác sử dụng đất hợp lí, chống bạc màu, glây,
nhiễm mặn, nhiễm phèn. Bón phân cải tạo đất thích hợp.
+ Cần có biện pháp chống ô nhiễm làm
thoái hóa đất do chất độc hóa học, thuốc trừ sâu, nước thải công nghiệp chứa
chất độc hại, chất bẩn chứa nhiều vi khuẩn gây bệnh hại cây trồng.
3. Sử dụng và bảo vệ
các tài nguyên khác
- Tài nguyên nước: hai vấn đề quan
trọng nhất hiện nay là ngập lụt vào mùa mưa và thiếu nước vào mùa khô. Do vậy
phải sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên nước, đảm bảo cân bằng và phòng
chống ô nhiễm nước.
- Tài nguyên khoáng sản: quản lí
chặt chẽ việc khai thác khoảng sản, tránh lãng phí tài nguyên và ô nhiễm môi
trường.
- Tài nguyên du lịch: bảo tồn, tôn
tạo giá trị tài nguyên và bảo vệ cảnh quan du lịch khỏi bị ô nhiễm, phát triển
du lịch sinh thái.
- Khai thác, sử dụng hợp lí và bền
vững các nguồn tài nguyên khác như tài nguyên khí hậu, tài nguyên biển.