I. ĐẤT NƯỚC BƯỚC ĐẦU ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (1976 - 1986)
1. Cách mạng Việt Nam
chuyển sang giai đoạn mới
- Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Mĩ, cứu nước và hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước, nước ta
chuyển sang giai đoạn đất nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Độc lập và thống nhất là điều kiện
tiên quyết để đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tiến lên chủ nghĩa xã hội sẽ
đảm bảo cho nền độc lập và thống nhất đất nước thêm bền vững.
- Độc lập và thống nhất đất nước
không những gắn với nhau mà còn gắn với chủ nghĩa xã hội. Đó là con đường phát
triển hợp quy luật của cách mạng nước ta.
2. Thực hiện kế hoạch Nhà
nước 5 năm (1976 - 1980)
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IV của Đảng (họp từ ngày 14 đến ngày 20/12/1976) đã tổng kết 21 năm (1954 -
1975):
- Tiến hành cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc, kháng chiến chống Mĩ cứu nước giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước.
- Đại hội đề ra đường lối xây dựng
chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước, quyết định phương hướng, nhiệm vụ, mục
tiêu của kế hoạch Nhà nước 5 năm (1976 - 1980).
* Nhiệm vụ: vừa xây dựng chủ nghĩa
xã hội, vừa cải tạo quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
* Mục tiêu cơ bản
- Xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật
của chủ nghĩa xã hội, bước đầu hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước mà
bộ phận chủ yếu là cơ cấu công - nông nghiệp
- Cải thiện một bước đời sống vật
chất và văn hoá của nhân dân lao động.
* Thực hiện kế hoạch 5 năm, nhân dân
ta đạt được những thành tựu quan trọng:
- Các cơ sở nông nghiệp, công
nghiệp, giao thông vận tải bị địch đánh phá về cơ bản đã được khôi phục và bước
đầu phát triển.
- Trong nông nghiệp, diện tích gieo
trồng tăng thêm gần 2 triệu hécta, được trang bị thêm 18 nghìn máy kéo các
loại.
- Trong công nghiệp, có nhiều nhà
máy được gấp rút xây dựng như nhà máy điện, cơ khí, xi măng v.v..
- Giao thông vận tải được khôi phục
và xây dựng mới hàng ngàn kilômét đường sắt, đường bộ, nhiều bến cảng. Tuyến đường
sắt Thống nhất từ Hà Nội đi Thành phố Hồ Chí Minh sau 30 năm bị gián đoạn đã
hoạt động trở lại.
- Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa
được đẩy mạnh trong các vùng mới giải phóng ở miền Nam: giai cấp tư sản mại bản
bị xoá bỏ, quốc hữu hóa các xí nghiệp,thành lập xí nghiệp quốc doanh hoặc công
tư hợp doanh. Đại bộ phận nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể, thủ công
nghiệp và thương nghiệp được sắp xếp và tổ chức lại.
- Xoá bỏ những biểu hiện văn hoá
phản động của chế độ thực dân phong kiến, xây dựng nền văn hoá mới cách mạng.
Hệ thống giáo dục từ mầm non, phổ thông đến đại học đều phát triển.
* Hạn chế
- Kinh tế mất cân đối, sản xuất phát
triển chậm, thu nhập quốc dân và năng xuất thấp làm cho đời sống nhân dân khó
khăn.
- Trong xã hội nảy sinh nhiều tiêu
cực.
3. Thực hiện kế hoạch Nhà
nước 5 năm (1981 - 1985)
a. Nhiệm vụ, mục tiêu kế hoạch nhà
nước 1981 - 1985
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V
của Đảng (họp từ ngày 27 đến ngày 31/3/1982) khẳng định:
* Nhiệm vụ
- Tiếp tục đường lối xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước do Đại hội IV đề ra với một số điểm điều
chỉnh, bổ sung và cụ thể hoá.
- Xác định thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta trải qua nhiều chặng, gồm chặng đường đầu tiên và những
chặng đường tiếp theo.
- Phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu
của kế hoạch Nhà nước 5 năm (1981 - 1985).
* Mục tiêu:
- Sắp xếp lại cơ cấu, đẩy mạnh cải
tạo xã hội chủ nghĩa nhằm ổn định tình hình kinh tế - xã hội.
- Đáp ứng nhu cầu cấp bách và thiết
yếu nhất của đời sống nhân dân, giảm nhẹ mất cân đối về kinh tế.
b. Thành tựu
Sau 5 năm, nước ta có những chuyển
biến và tiến bộ đáng kể:
- Trong sản xuất nông nghiệp và công
nghiệp, đã chặn được đà giảm sút và có bước phát triển:
+ Sản xuất nông nghiệp tăng bình
quân hằng năm là 4,9% so với 1,9% của những năm 1976 - 1980.
+ Sản xuất công nghiệp tăng bình
quân 9,5% so với 0,6% trong những năm 1976 - 1980.
+ Thu nhập quốc dân tăng bình quân
hằng năm là 6,4% so với 0,4% trong 5 năm trước.
- Về xây dựng cơ sở vật chất - kĩ
thuật, ta hoàn thành hàng trăm công trình tương đối lớn, hàng nghìn công trình
vừa và nhỏ. Dầu mỏ bắt đầu được khai thác, công trình thuỷ điện Sông Đà, thuỷ
điện Trị An được khẩn trương xây dựng, chuẩn bị đi vào hoạt động.
- Các hoạt động khoa học - kĩ thuật
được triển khai, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển.
c. Khó khăn
- Những khó khăn cũ chưa khắc phục,
có mặt còn trầm trọng hơn, tình hình kinh tế - xã hội chưa ổn định.
- Xuất phát từ nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan, nhất là sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo và quản lý,
chậm khắc phục.
II. ĐẤU TRANH BẢO VỆ TỔ QUỐC 1975 - 1979
1. Bảo vệ biên giới Tây
Nam
- Tập đoàn Khơ me đỏ do Pôn pốt cầm
đầu xâm phạm lãnh thổ nước ta.
- Tháng 5/1975 chiếm Phú Quốc và đảo
Thổ Chu.
- 22/12/1978: tập đoàn “Khơ me đỏ”
do Pôn pốt cầm đầu, tấn công nước ta từ Hà Tiên đến Tây Ninh.
- Quân ta phản công, tiêu diệt toàn
bộ quân xâm lược..
- 7/1/1979 quân đội Việt Nam cùng
với lực lượng cách mạng Campuchia tiến công, xóa bỏ chế độ diệt chủng Pôn pốt,
giải phóng Phnôm Pênh (7/1/1979)
- Ý nghĩa: đem lại hòa bình cho biên
giới Tây Nam.
2. Bảo vệ biên giới phía Bắc
- Hành động của Trung Quốc: ủng hộ
Pôn pốt chống Việt Nam, khiêu khích dọc biên giới phía Bắc, dựng nên sự kiện
“nạn kiều”, cắt viện trợ, rút chuyên gia.
- Trung Quốc tấn công biên giới phía
Bắc ngày 17/2/1979 từ Móng Cái đến Phong Thổ (Lai Châu).
- Nhân dân Việt Nam ở 6 tỉnh phía
Bắc chiến đấu bảo vệ lãnh thổ, Trung Quốc rút quân từ 18/3/1979.
* Ý nghĩa:
- Giữ gìn hòa bình, bảo vệ toàn vẹn
lãnh thổ.
- Khôi phục tình đoàn kết, hữu nghị
hợp tác giữa VN - Trung Quốc - Campuchia với tinh thần "khép lại quá khứ,
mở rộng tương lai".
* Các lần Đại hội Đảng:
1. Từ ngày 28 đến 31-3-1935, Đại hội
đại biểu lần thứ I của Đảng đã họp tại một địa điểm ở phố Quan Công, Ma Cao
(Trung Quốc) nhằm xác định đường lối cho thời kỳ đấu tranh mới khi Đảng đã phục
hồi. Tham dự Đại hội có 13 đại biểu, lúc này đồng chí Nguyễn Ái Quốc đang công
tác ở Quốc tế Cộng sản, đồng chí Lê Hồng Phong dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng ta đi
dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VII, nên không tham dự được.
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ II của Đảng được triệu tập nhằm đáp ứng những đòi hỏi bức thiết đó. Đại hội
họp tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang từ ngày 11 đến ngày
19/2/1951. Về dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết
thay mặt cho 766.349 đảng viên đang sinh hoạt trong Đảng bộ toàn Đông Dương.
Đến dự Đại hội còn có đại biểu của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Xiêm
(Thái Lan).
3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ III của Đảng họp tại thủ đô Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 10/9/1960. 525 đại
biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết thay mặt cho hơn 50 vạn đảng viên
trong cả nước đã về dự Đại hội.
4. Trước hoàn cảnh lịch sử trong
nước và thế giới có nhiều thuận lợi đồng thời cũng có nhiều khó khăn thách
thức, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV
tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 14 đến ngày 20/12/1976. 1008 đại biểu thay mặt hơn
1.550.000 đảng viên trong cả nước dự Đại hội.
5. Sau năm năm kể từ Đại hội lần thứ
IV, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, họp từ ngày 27 đến ngày 31
tháng 3 năm 1982 tại Thủ đô Hà Nội.
6. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI của Đảng họp tại Hà Nội từ ngày 15 đến 18-12-1986. Dự Đại hội có 1129
đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên trong toàn Đảng. Đến dự Đại hội
có 32 đoàn đại biểu quốc tế.
7. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 24 đến ngày
27/6/1991.
8. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra từ ngày 28-6 đến 1-7-1996, tại Hội
trường Ba Đình, Hà Nội. Dự Đại hội có 1.198 đảng viên đại diện cho gần 2 triệu
130 nghìn đảng viên trong cả nước.
9. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX của Đảng họp tại Hà Nội từ ngày 19 đến 22 tháng 4 năm 2001, với sự tham
gia của 1.168 đại biểu là những đảng viên ưu tú được bầu từ các đại hội đảng bộ
trực thuộc, đại diện cho 2.479.719 đảng viên trong toàn Đảng.
10. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam - Đại hội của trí tuệ, đổi mới, đoàn kết và phát
triển bền vững - họp từ ngày 18-4-2006 đến ngày 25-4-2006 tại Thủ đô Hà Nội. Dự
Đại hội có 1.176 đại biểu thay mặt cho hơn 3,1 triệu đảng viên trong toàn Đảng.