I. HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI CÂU HỎI GIỮA BÀI
Câu 1: Tình hình
nước ta trong những năm 1939 - 1945 có biến chuyển như thế nào?
Trả
lời:
Về chính trị:
- Đầu tháng
9/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.
- Chính phủ
Pháp đầu hàng phát xít Đức.
- Chính sách
của Pháp ở Đông Dương thay đổi:
- Tăng cường
đàn áp cách mạng.
- Ra lệnh động
viên, vơ vét tối đa sức người, sức của ở Đông Dương dốc vào chiến tranh.
- Quân Nhật
tiến vào Đông Dương
- Tháng
9/1940, quân Nhật tiến vào Việt Nam.
- Quân Pháp
nhanh chóng đầu hàng, câu kết với phát xít Nhật cùng thống trị, bóc lột
nhân dân ta.
- Nhật và
tay sai ra sức tuyên truyền, lừa bịp về văn minh và sức mạnh Nhật Bản...
- Năm 1945, ở
mặt trận châu Á -Thái Bình Dương, quân Nhật thua to ở nhiều nơi.
- Ở Đông
Dương, ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm Đông Dương.
- Quần chúng
nhân dân sục sôi khí thế, sẵn sàng khởi nghĩa giành lại độc lập.
Về kinh tế
- Thực dân
Pháp: đẩy mạnh chính sách vơ vét tối đa Đông Dương, thi hành chính sách
“Kinh tế chỉ huy”, tăng thuế cũ, đặt thêm thuế mới, giảm tiền lương, sa thải
công nhân...
- Phát xít Nhật:
buộc Pháp phải cung cấp nguyên liệu cho Nhật với giá rẻ; cướp ruộng đất của
nông dân, bắt nông dân nhổ lúa, ngô để trồng bông, đay, thầu dầu; đầu tư
vào những ngành phục vụ quân sự như khai thác mănggan, sắt...
Về xã hội:
- Chính sách
vơ vét, bóc lột Pháp – Nhật đã đẩy nhân dân ta vào tình cảnh cùng cực. Hậu
quả là cuối năm 1944 đến đầ 1945 có gần 2 triệu đồng bào ta chết đói.
- Tất cả các
giai cấp, tầng lớp ở nước ta, đều bị ảnh hưởng bởi chính sách bóc lột của
Pháp - Nhật, mâu thuẫn dân tộc gay gắt hơn bao giờ hết.
Câu 2: Chủ trương
của Đảng được đề ra tại các Hội nghị Ban Chấp hành....
Chủ
trương của Đảng được đề ra tại các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng
11 - 1939 và lần thứ 8 (5 - 1941) như thế nào?
Trả
lời:
Chủ trương của Đảng tại hội nghị ban chấp
hành trung ương tháng 11/1939:
- Hội nghị
xác định nhiệm vụ, mục tiêu đấu tranh trước mắt của cách mạng Đông Dương
là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc Đông Dương làm cho
Đông Dương hoàn toàn độc lập.
- Hội nghị chủ
trương tạm gác khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội
quyền lợi của dân tộc, chống tô cao, lãi nặng. Khẩu hiệu “lập chính quyền
xô viết công – nông –binh” được thay thế bằng khẩu hiệu “chính quyền dân
chủ cộng hòa”.
- Về phương
pháp đấu tranh, Đảng chuyển từ đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ sang đấu
tranh đánh đổ chính quyền đế quốc và tay sai, từ hoạt động hợp pháp, nửa hợp
pháp sang hoạt động bí mật, bất hợp pháp.
- Đảng chủ
trương thành lập Mặt trận thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương thay cho mặt
trận Dân chủ Đông Dương.
Chủ trương của Đảng tại hội nghị ban chấp
hành trung ương lần thứ 8 (5/1941):
- Hội nghị khẳng
định chủ trương đề cao hơn nữa nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đưa nó lên
hàng đầu: Cuộc cách mạng Đông Dương giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng
dân tộc giải phóng.
- Hội nghị tạm
gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay bằng khẩu
hiệu “tịch thu ruộng đất cho bọn đế quốc, Việt gian chia cho dân cày
nghèo”, thực hiện giảm tô, giảm tức…
- Hội nghị chủ
trương thành lập mặt trận dân tộc thống nhất riêng mỗi nước Việt Nam, Lào,
Campuchia. Ở Việt Nam thành lập Việt Nam độc lập đồng minh.
- Hội nghị
quyết định xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang . Đó là nhiệm vụ
trung tâm của Đảng giai đoạn hiện đại.
- Hội chính
thức bầu ra ban chấp hành trung ương mới, bầu Trường Chinh làm tổng bí
thư.
Câu 3: Hãy lập
bảng tóm tắt nguyên nhân, diễn biến, ý nghĩa của khởi....
Hãy
lập bảng tóm tắt nguyên nhân, diễn biến, ý nghĩa của khởi nghĩa Bắc Sơn,
khởi nghĩa Nam Kì và binh biến Đô Lương?
Trả
lời:
Nội dung |
Khởi nghĩa Bắc Sơn |
Khởi nghĩa Nam Kì |
Binh biến Đô Lương |
Nguyên nhân |
Nhật đẩy mạnh kế hạch đánh chiếm Đông
Dương. Ngày 22-9-1940, Nhật đổ bộ lên Đồ Sơn (Hải
Phòng) Pháp bị tổn thất nặng nề, rút chạy về Bắc
Sơn. |
Năm 1940, Pháp và Thái Lan xảy ra xung đột,
thanh niên Việt Nam bị ép tham gia chiến đấu. Do đó, nhân dân Nam Kì và binh
lính đã đấu tranh phản đối việc đưa binh lính ra mặt trận. |
Binh lính người Việt trong quân đội Pháp
phản đối việc họ bị đưa sang Lào để đấu tranh với Thái Lan. |
Diễn biến |
Tháng 9 - 1940, nhân dân Bắc Sơn nổi dậy
chống Pháp và giành được chính quyền tại địa phương, lập nên đội du kích Bắc
Sơn. Mấy ngày sau, Pháp câu kết với Nhật, chúng
khủng bố cuộc khởi nghĩa. |
Tháng 11 - 1940, khởi nghĩa nổ ra từ miền
Đông đến miền Tây Nam Bộ. Kế hoạch bị lộ, Pháp cho ném bom tàn sát
nhân dân. Lực lượng khởi nghĩa còn lại phải rút về
Đồng Tháp và U Minh. |
Tháng 1 – 1941, binh lính đồn Chợ Rạng dưới
sự chỉ huy của Đội Cung đã nổi dậy đấu tranh chiếm đồn Đô Lương rồi lên ô tô
về Vinh để chiếm thành. Kế hoạch bất thành, toàn bộ binh lính nổi
dậy bị bắt, Đội Cung và 10 đồng chí của ông bị xử bắn, nhiều người bị lưu
đày. |
Ý nghĩa |
Mở đầu phong trào vũ trang giải phóng dân
tộc. Giúp Đảng rút ra những bài học quý báu về
khởi nghĩa vũ trang, chọn thời cơ khởi nghĩa. |
Chứng tỏ tinh thần yêu nước, sẵn sàng đứng
lên chống quân thù của nhân dân Nam Bộ. |
Là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi
nghĩa toàn quốc. Bước đầu đấu tranh bằng vũ lực. |
Câu 4: Nêu những
nét chính về công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa của Đảng từ....
Nêu
những nét chính về công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa của Đảng từ sau Hội nghị
Trung ương lần thứ 8 (5 - 1941)?
Trả
lời:
Sau hội nghị Trung ương lần thứ 8, chúng ta
tiến hành chuẩn bị khởi nghĩa:
Về xây dựng lực lượng chính trị:
- Vận động quần
chúng tham gia Việt Minh, xây dựng các hội cứu quốc.
- Ủy ban Việt
Minh tỉnh Cao Bằng và ủy ban Việt Minh lâm thời liên tỉnh Cao – Bắc
- Lạng được thành lập.
- Năm 1943, Đảng
đưa ra đề cương Văn hóa Việt Nam,vận động thành lập Hội Văn hóa cứu quốc
Việt Nam.
Về xây dựng lực lượng vũ trang:
- Sau khởi
nghĩa Bắc Sơn, đội du kích Bắc Sơn thành lập, hoạt động tại căn cứ Bắc Sơn
- Võ Nhai.
- Năm 1941,
các đội du kích Bắc Sơn thống nhất thành Trung đội Cứu quốc quân số I
(14-2-1941), phát động chiến tranh du kích trong 8 tháng.
- Ngày
15/9/1941, Trung đội Cứu quốc quân II ra đời.
Về xây dựng địa căn cứ cách mạng:
- Hai
căn cứ địa đầu tiên của cách mạng nước ta là: Bắc Sơn – Võ Nhai và Cao Bằng
- Hội nghị
Trung ương 11/1940 xây dựng Bắc Sơn – Võ Nhai thành căn cứ địa cách mạng .
- 1941, sau
khi về nước, Nguyễn Ai Quốc chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa dựa trên
cơ sở lực lượng chính trị và tổ chức phát triển…
Câu 5: Nêu hoàn
cảnh lịch sử và diễn biến khởi nghĩa từng phần từ tháng 3....
Nêu
hoàn cảnh lịch sử và diễn biến khởi nghĩa từng phần từ tháng 3 đến giữa
tháng 8 – 1945?
Trả
lời:
- Hoàn cảnh lịch
sử:
- Hồng quân
Liên Xô tiến đánh Béclin, một loạt nước châu Âu được giải phóng
- Mâu thuẫn
Nhật - Pháp ngày càng gay gắt.
- Tháng 3 -
1945, Nhật đảo chính Pháp, Pháp chống cự yếu ớt rồi nhanh chóng đầu hàng.
- Trong bối
cảnh đó, Đảng xác định kẻ thù trước mắt là phát xít Nhật.
- Diễn biến:
- Hình thức
đấu tranh từ bất hợp tác, bãi công, bãi thị đến biểu thình, thị uy, vũ
trang du kích và sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa khi có điều
kiện.
- Ở khu căn
cứ địa Cao - Bắc - Lạng, hoàng loạt các xã, châu, huyện được giải phóng,
chính quyền cách mạng được thành lập.
- Tại Bắc Kì
và Trung Kì, phong trào diễn ra manh mẽ dưới khẩu hiệu “Phá kho thóc, giải
quyết nạn đói”.
- Làn sóng
khởi nghĩa từng phần diễn ra rộng khắp cả nước.
Câu 6: Nêu hoàn
cảnh lịch sử và diễn biến của Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945?
Trả
lời:
Hoàn cảnh diễn ra cuộc Tổng khởi nghĩa tháng
Tám năm 1945:
- Hoàn cảnh lịch
sử:
- Chiến
tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc, tạo điều kiện cho
phong trào giải phóng dân tộc phát triển ở các nước trên thế giới, trong
đó có Việt Nam.
- Ở Việt Nam,
lệnh Tổng khởi nghĩa được phát động trong cả nước.
- Diễn biến:
- Ngày 16 -
8 - 1945, một đơn vị Giải phóng tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên.
- Ngày 17 -
8 - 1945, quần chúng Hà Nội tổ chức mít tinh, thể hiện sự ủng hộ chính
quyền cách mạng.
- Ngày 18 -
8 - 1945, nhân dân Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam giành chính
quyền.
- Ngày 19 -
8 - 1945, khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội thắng lợi.
- Ngày 23 -
8 - 1945, giành chính quyền ở Huế.
- Ngày 25 -
8 - 1945, giành chính quyền ở Sài Gòn.
- Ngày 28 -
8 - 1945, Đồng Nai Thượng và Hà Tiên là các tỉnh giành chính quyền muộn
nhất.
- Ngày 30 -
8 - 1945, Vua Bảo Đại thoái vị. Chế độ phong kiến Việt Nam hoàn toàn sụp
đổ.
Câu 7: Nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập như thế nào?
Trả
lời:
- Ngày
25/8/1945, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng và Ủy ban Dân tộc giải phóng về
đến Hà Nội
- Ngày
28/8/1945, Ủy ban Dân tộc giải phóng cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Ngày
2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc
lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Câu 8: Nêu nội
dung cơ bản của Tuyên ngôn độc lập (2 - 9 - 1945)?
Trả
lời:
Ngày 2-9-1945 Chủ Tịch Hồ Chí Minh đọc
bản Tuyên ngôn Độc lập , thành lập nước Việt nam dân Chủ Cộng Hòa .
Nội dung :
- Nước Việt
Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc
lập.
- Pháp chạy,
Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân
gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ
chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa.
- Việt Nam
quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do, độc lập ấy.
Câu 9: Nêu nguyên
nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của...
Nêu
nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của Cách mạng
tháng Tám năm 1945?
Trả
lời:
Nguyên nhân thắng lợi:
- Kế thừa và
phát huy đến cao độ truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm anh hùng,
bất khuất trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc.
- Sự lãnh đạo
của Đảng, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch đường lối đấu tranh
đúng. Nhân dân kiên quyết cách mạng.
- Điều kiện
khách quan thuận lợi: Hồng quân Liên Xô đánh bại quân Nhật – tạo thời cơ
cho nhân dân ta nổi dậy dành chính quyền .
Ý nghĩa lịch sử:
- Đối với
trong nước: Cách mạng tháng Tám đã đánh đuổi được bọn đế quốc, giải phóng
dân tộc, lật đổ chế độ phong kiến, lập ra nhà nước Viêt Nam dân chủ cộng
hòa. Sự kiện này đã đưa ta từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến trở thành
một nước độc lập, dân chủ cộng hòa. Đưa dân ta từ người nô lệ trở thành
người làm chủ đất nước, đưa Đảng ta từ một Đảng hoạt động bất hợp pháp
thành Đảng cầm quyền trong cả nước. Mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc ta
–kỉ nguyên độc lập, tự do ghi thêm một trang oanh liệt nữa vào truyền thống
đấu tranh chống ngoại xâm anh hùng, bất khuât của dân tộc.
- Đối với thế
giới: Cuộc cách mạng tháng Tám đã góp phần đánh bại chủ nghĩa phát xít thế
giới, trong đó có phát xít Nhật ở Đông Dương. Cách mạng tháng Tám thành
công không những đưa nước ta độc lập mà còn đưa nước ta đứng trong hàng
ngũ những nước dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Cổ vũ rất
lớn đến phong trào giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Thắng lợi góp phần củng cố hòa bình ở khu vực Đông Nam Á nói riêng và ở
toàn thế giới nói chung.
Bài học kinh nghiệm:
- Giải quyết
một cách đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ phản đế và phản phong.
- Triệt để lợi
dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, tập hợp mọi lực lượng yêu nước, xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong mặt trận dân tộc thống nhất, lấy
liên minh công nông làm nền tảng.
- Kiên quyết
đi theo con đường cách mạng bạo lực của quần chúng theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lê Nin.
- Chuẩn bị
lâu dài kết hợp với thời cơ
=> Đây là những bài học có giá trị, ý
nghĩa đối với chúng ta trong công cuộc bảo vệ tổ quốc, xây dựng đất nước sau
đó.
II. HƯỚNG DẪN TRẢ
LỜI CÂU HỎI CUỐI BÀI
Câu 1: Mặt trận
Việt Minh ra đời có tác động như thế nào đến cao trào....
Mặt
trận Việt Minh ra đời có tác động như thế nào đến cao trào kháng Nhật cứu
nước?
Trả
lời:
Mặt trận Việt Minh ra đời ( ngày 19 – 5-
1941) đã có những tác động tích cực đến cao trào kháng Nhật cứu nước. có vai
trò vô cùng quan trọng đối với cao trào Kháng Nhật cứu nước. Cụ thể là:
Đối với cách mạng tháng Tám, Mặt trận Việt
Minh đã tập hợp mọi lực lượng yêu nước để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân,
xây dựng lực lượng chính trị cho cách mạng thắng lợi. Mặt trận Việt Minh có
công lớn trong việc phát triển lực lượng vũ tran, trong việc chỉ đạo phong trào
kháng Nhật cứu nước, tạo tiền đề cho tổng khởi nghĩa tháng Tám.
Trong việc triệu tập và tiến hành thành công
Quốc dân đại Đại hội Tân Trào ngày 16 và 17/8/1945, huy động nhân dân tham gia
Tổng khởi nghĩa tháng Tám, dưới sự lãnh đạo của Đảng, giành được thắng lợi.
Trong những ngày Tổng khởi nghĩa, lá cờ đỏ sao vàng năm cánh của Mặt trận Việt
Minh tung bay trong cả nước và trở thành Quốc kì của nước Việt Nam Dân chủ cộng
hòa, được quốc hội khóa I thông qua.
Câu 2: Sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng Cộng sản Đông Dương và Hồ Chí Minh....
Sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Đông Dương và Hồ Chí Minh trong cách mạng
tháng Tám được thể hiện như thế nào?
Trả
lời:
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Đông
Dương và Hồ Chí Minh trong cách mạng tháng Tám được thể hiện trong việc biết
nắm bắt thời cơ và lên kế hoạch hành động.
Biết nắm bắt thời cơ: Nhận được thông
tin Nhật đầ hàng, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh lập tức thành lập Ủy ban
khởi nghĩa toàn quốc, sau đó ban bố “Quân lệnh số 1”, chính thức phát lệnh Tổng
khởi nghĩa trong cả nước trước khi quân Đồng Minh kéo vào nước ta.
Kế hoạch hành động:
- Đảng triệu
tập Hội nghị toàn quốc, thông qua kế hoạch lãnh đạo toàn dân Tổng khởi
nghĩa, quyết định chính sách đối nội-đối ngoại sau khi giành được chính
quyền.
- Hồ Chí Minh
và Trung ương Đảng triệu tập Quốc dân đại hội Tân Trào, tán thành chủ
trương Tổng khởi nghĩa của Đảng.
- Cùng với
Trung ương Đảng, Hồ Chí Minh đã tích cực tham gia, lãnh đạo các tầng lớp
nhân dân đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền về tay mình. Cuộc Tổng khởi
nghĩa giành chính quyền đã diễn ra nhanh chóng (khoảng 15 ngày), ít đổ
máu.
- Chủ tịch Hồ
Chí Minh soạn thảo Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa.
Câu 3: Tìm hiểu
về cuộc khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám ở địa phương em?
Trả
lời:
Khởi nghĩa Tháng Tám ở Sài Gòn:
Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ tháng 11/1940 thất
bại, lực lượng Đảng Cộng Sản và cơ sở cách mạng ở Nam Kỳ bị thực dân Pháp đàn
áp dã man, tổn thất vô cùng to lớn.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp tháng 3/1945, lực
lượng cách mạng ở Nam Kỳ tuy đang phục hồi dần, nhưng lực lượng của đối phương
vẫn đông và mạnh hơn nhiều lần.
Nhưng dựa trên sự phân tích tình hình trên
thế giới và trong nước, trước sự thất trận của quân Đức ở châu Âu và quân Nhật
ở châu Á, Xứ ủy Nam Kỳ nhận định thời cơ tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính
quyền trong phạm vi cả nước đã chín muồi.
Vì vậy ở Nam Kỳ nói chung và ở Sài Gòn nói
riêng, phải khẩn trương làm thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và địch, gây
dựng phong trào quần chúng rộng rãi hướng tới Tổng khởi nghĩa.
Chỉ trong vòng 3 - 4 tháng, hàng triệu người
dân cả thành thị và thôn quê được Đảng tuyên truyền và tổ chức, sẵn sàng đứng
lên.
Riêng nội thành Sài Gòn lúc này có 324 công
đoàn cơ sở với 120 ngàn đoàn viên; Thanh niên Tiền phong có 80 ngàn đoàn viên,
hoạt động công khai và hợp pháp.
Ngày 15/8, Xứ ủy Nam Kỳ họp, xác định thời cơ
khởi nghĩa tới rồi, Nam Kỳ phải kịp thời hòa vào dòng thác Tổng khởi nghĩa của
cả nước. Cần thành lập ngay một Ủy ban khởi nghĩa và bắt tay vào hành động
ngay.
Nhưng khi bàn về thời điểm phát lệnh khởi
nghĩa, dự kiến là đêm 17 hoặc 18/8, có một số ý kiến tuy thuộc phe thiểu số
nhưng rất gay gắt phản bác. Đó là ý kiến sợ "khởi nghĩa non" như 5
năm trước, là ý kiến không cần khởi nghĩa, không cần bạo động mà đấu tranh
chính trị cũng có thể đi đến độc lập dân chủ.
Trong vòng bảy ngày, Hội nghị Xứ ủy phải họp
tới ba lần (tại chợ Đệm, Trung Quận). Sáng 21/8, đồng chí Trần Văn Giàu, người
chủ trì cả ba cuộc Hội nghị trên, đưa ra đề nghị cuối cùng được tất cả đại biểu
tán thành: Giao cho Đảng bộ tỉnh Tân An làm khởi nghĩa thí điểm, sáng 23/8 trở
lại báo cáo kết quả với Xứ ủy.
Tân An là cửa ngõ quan trọng phía tây nam Sài
Gòn, có phong trào quần chúng sôi nổi và được chuẩn bị khá chu đáo. Ngay trong
đêm 21/8, Tỉnh ủy khẩn trương họp, ra "Nghị quyết đỏ", tổ chức may cờ
búa liềm, cờ đỏ sao vàng, tập trung các đội cận vệ đỏ từ các địa phương về thị
xã.
Trong ngày 22/8, Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Văn
Trọng và Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Lê Minh Xuân trực tiếp chỉ huy lực lượng đến
tước vũ khí của lính bảo an tỉnh, thu hơn 140 súng.
Thanh niên Tiền phong thiết lập trật tự chung
toàn thị xã; tên tỉnh trưởng Thạch trên đường từ Sài Gòn về bị ta đón lõng và
bắt giam.
Tảng sáng ngày23/8, Ủy ban Nhân dân cách mạng
tỉnh ra mắt đồng bào. Cùng lúc, một xe ô tô chở đoàn cán bộ của tỉnh lên Chợ
Đệm báo cáo thắng lợi với Xứ ủy.
Xứ ủy quyết định Sài Gòn, trọng điểm của toàn
Nam Kỳ, sẽ khởi nghĩa ngày 25/8.
Từ sẩm tối 24/8 đến 0 giờ ngày 25/8, các đội
xung phong công nhân và thanh niên đã hoàn tất việc chiếm tất cả các cơ quan
trong nội ô thành phố, không gặp trở ngại gì: từ Nhà đèn chợ Quán, Sở Mật thám,
bót cảnh sát, đến Đài phát thanh, dinh Đốc lý...
Khâm sai Nam Kỳ - Nguyễn Văn Sâm và Đổng lý
văn phòng Phủ Khâm sai - Hồ Văn Ngà bị giữ tại buồng ngủ của họ tại dinh Khâm
sai.
Riêng Ngân hàng Đông Dương do có nhiều quân
Nhật nên ta không chiếm được, vì có chủ trương không xung đột với chúng lúc này
nên anh em được lệnh rút lui.
Từ nửa đêm đến tờ mờ sáng, công nhân, viên
chức, nhân dân nội thành và ngoại ô bắt đầu tập hợp theo đoàn, theo giới,
trương cờ, băng khẩu hiệu, trang bị vũ khí thô sơ, tiến dần vào trung tâm thành
phố.
Ủy ban khởi nghĩa đứng trước một vấn đề không
đơn giản là số người tham gia khởi nghĩa có thể lên tới một triệu và nhiều hơn
thế (bà con ở các tỉnh lân cận xa 30 - 40km cũng đi xe đò, xe ngựa đến). Vì vậy
phải có kế hoạch giữ trật tự thật chu đáo, không cho địch lợi dụng để phá
phách, khiêu khích.
Từ sáng sớm ngày 25/8, cả triệu quần chúng
Sài Gòn - Chợ Lớn và các tỉnh lân cận ào ạt kéo vào thành phố, quyết tâm khởi
nghĩa giành chính quyền.
Đoàn người hô vang như sấm dậy khẩu hiệu:
"Việt Nam hoàn toàn độc lập!", "Tất cả về tay Việt Minh!",
"Mặt trận Việt Minh muôn năm!", "Đảng Cộng sản Việt Nam muôn
năm!", "Độc lập hay là chết!".
Cờ đỏ sao vàng tràn ngập đường phố, bay phấp
phới hiên ngang trên các công sở.
Quần chúng như một biển người kéo về dự mít
tinh, hoan nghênh Ủy ban Nhân dân Nam Kỳ. Đoàn người xếp thành hàng ngũ suốt từ
đại lộ No-rô-đôm đến Sở thú, từ sau Nhà thờ Đức Bà đến bót Giếng nước, trung
tâm là lễ đài đã được dựng xong từ đêm 24/8.
Đồng chí Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa báo cáo
việc chiếm lĩnh xong các cơ quan chính quyền địch trong đêm vừa qua, nói về ý
nghĩa quan trọng của cuộc biểu tình tuần hành vũ trang ngày hôm nay và ý nghĩa
của cách mạng đã nổ ra thắng lợi chẳng những ở Sài Gòn mà cả ở Hà Nội, Huế và
khắp nước Việt Nam.
Đồng chí cũng không quên nhắc lại những hy
sinh to lớn, anh dũng của các thế hệ cha anh đi trước để có được ngày hôm nay.
Sau đó, cuộc biểu tình vũ trang bắt đầu, đi
đầu là lá cờ mặt trận và cờ Đảng, đoàn biểu tình đi theo đường Ca-ti-nat (nay
là đường Đồng Khởi) về trước dinh Đốc lý.
Tại đây, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đã tuyên đọc
danh sách của Ủy ban hành chính lâm thời Nam Bộ.
Đồng chí Nguyễn Lưu, Ủy viên Ban Chấp hành
Tổng Công đoàn Nam Bộ đọc bản hiệu triệu của Mặt trận Việt Minh. Đồng chí
Nguyễn Văn Nguyễn đọc lời hiệu triệu của Xứ ủy Nam Bộ, kêu gọi đồng bào hết
lòng ủng hộ chính quyền cách mạng, dân chủ của mình, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ
nền độc lập vừa giành được.
Báo chí tại Sài Gòn nhất loạt đăng bài tường
thuật và bình luận sự kiện lịch sử này với tất cả niềm hân hoan tự hào của một
dân tộc đứng lên làm cuộc cách mạng đổi đời. Đây là một cuộc thay đổi hết sức
to lớn trong lịch sử của thành phố.
Trong hoàn cảnh chưa liên lạc được với Trung
ương, lực lượng địch và các phe phái phản động còn đông, Xứ ủy Nam Kỳ đã có sự
nhận định tình hình đúng đắn, nhạy bén, nêu cao tinh thần dám nghĩ và tự quyết
đoán, vận dụng sáng tạo nghệ thuật nắm thời cơ cách mạng và tiến hành khởi
nghĩa thắng lợi.
Nhờ vậy, khởi nghĩa ở Sài Gòn và Nam Bộ tháng
8/1945 đã kịp thời hòa vào làn sóng Tổng khởi nghĩa của cả nước.
Nói về tầm quan trọng của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Sài Gòn, tiếp theo các cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, đồng chí Lê Duẩn đã khẳng định: "Cách mạng tháng Tám là một cuộc Tổng khởi nghĩa kết hợp tài tình đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, một cuộc nổi dậy đồng loạt ở cả thành thị lẫn nông thôn mà đòn quyết định là các cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn".